Chuyển hóa oxalat
Axit oxalic trải qua nhiều chuyển đổi tùy thuộc vào độ axit của môi trường mà nó có mặt. Độ axit của dung dịch nước thường được biểu thị bằng một giá trị gọi là độ pH. Độ pH rất thấp như 0 hoặc 1 biểu thị dung dịch rất axit trong khi độ pH 13 hoặc 14 sẽ biểu thị dung dịch rất kiềm. Độ pH bằng 7 biểu thị tình trạng trung tính. Máu có độ pH là 7,4, có tính kiềm rất nhẹ. Độ pH của nước tiểu thay đổi trong khoảng từ 4,5 đến 8 với mức trung bình là 6. Axit oxalic có thể mất ion hydro hoặc proton tích điện dương ở độ pH rất thấp. Giá trị pK đầu tiên đối với axit oxalic (1.27) biểu thị độ pH trong đó có lượng axit oxalic bằng nhau và dạng của nó thiếu một proton gọi là monobasic oxalat. Ở độ pH cao hơn, oxalat monobasic chuyển thành dạng oxalat dibasic với hai điện tích âm. Giá trị pK thứ hai cho oxalate (4. 28) cho biết độ pH tại đó có các giá trị bằng nhau của oxalat monobasic và dibasic. Ở độ pH của máu, cực kỳ ổn định, hầu như tất cả oxalate đều ở dạng dibasic. Bởi vì độ pH của nước tiểu thay đổi rất nhiều, oxalate chủ yếu ở dạng dibasic trong nước tiểu trung bình trong khi nó ở cả dạng monobasic và dibasic trong các mẫu nước tiểu rất axit. Khi các oxalate được thử nghiệm, tất cả chúng đều được chuyển đổi thành dạng giống nhau trước khi thử nghiệm, vì vậy chúng có thể được gọi là oxalat, oxalat hoặc axit oxalic.
Tính không hòa tan là một yếu tố chính trong độc tính của oxalate.
Độ hòa tan của oxalate ở nhiệt độ cơ thể chỉ xấp xỉ 5 mg/L ở độ pH là 7,0. Ngược lại, độ hòa tan của axit oxalic trong nước xấp xỉ 106.000 mg/L. Do đó, dạng oxalate của axit oxalic cực kỳ khó hòa tan. Ở hầu hết các giá trị pH sinh lý, muối oxalat chiếm ưu thế. Oxalat có khả năng tạo muối với nhiều loại kim loại nhưng mỗi loại muối này có độ tan khác nhau. Một thước đo để đo độ hòa tan của các muối khác nhau được gọi là hằng số tích số hòa tan hay Ksp. Giá trị của Ksp càng nhỏ thì độ không tan của muối càng lớn. Một cách khác để diễn đạt điều này là Ksp càng thấp thì xu hướng muối đó hình thành các tinh thể không hòa tan có thể hình thành trong các mô càng lớn.
Tầm quan trọng của các số sản phẩm hòa tan này là gì?
Đầu tiên, Ksp đối với canxi oxalat chỉ ra rằng bất cứ khi nào tích số của nồng độ canxi và nồng độ oxalat trong máu vượt quá Ksp, các tinh thể canxi oxalat có thể hình thành và lắng đọng trong các mô. Vì nồng độ canxi trong máu hầu như không thay đổi do cơ chế cân bằng nội môi, nên chính nồng độ oxalat trong máu thay đổi nhiều và quyết định liệu các tinh thể canxi oxalat có hình thành và lắng đọng trong các mô hay không. Kẽm oxalat cũng có Ksp rất nhỏ nên nếu oxalat có số lượng lớn trong đường ruột, phần lớn kẽm oxalat được hình thành sẽ không được hấp thụ vì nó rất khó hòa tan.
Thứ hai, oxalat thủy ngân có Ksp thấp nhất trong số các loại muối oxalat mà tôi có thể tìm thấy. Nếu một cá nhân tiếp xúc với thủy ngân vô cơ và có lượng oxalate cao trong máu hoặc mô, thì oxalat thủy ngân không hòa tan có thể hình thành trong máu và các mô không thể loại bỏ được.
Thủy ngân được sử dụng trong vắc-xin làm chất bảo quản là một dạng hữu cơ được chuyển đổi thành thủy ngân vô cơ. Nếu một người được tiêm vắc-xin đang dùng kháng sinh hoặc đã từng dùng kháng sinh, họ có thể bị nấm men/nấm phát triển quá mức trong đường ruột. Chúng sẽ hấp thụ một lượng đáng kể oxalate từ những sinh vật này, chúng sẽ giữ thủy ngân trong các mô và ngăn cản việc loại bỏ nó. Nhiều phụ huynh đã nói chuyện với tôi cho biết rằng con của họ đã bị phản ứng xấu với vắc-xin khi đang dùng kháng sinh tại thời điểm tiêm chủng.
Thứ ba, magie oxalat dễ hòa tan hơn nhiều so với canxi oxalat. Vì vậy, nếu các chất bổ sung magie được cung cấp riêng lẻ, oxalat từ thực phẩm hoặc các nguồn men/nấm kết hợp với magie có nhiều khả năng được hấp thụ hơn nhiều so với canxi oxalat. Tuy nhiên, magie thẩm thấu qua da hoặc magie từ dung dịch tắm muối Epsom đi vào máu và các mô qua da có thể giúp hòa tan các tinh thể canxi hoặc thủy ngân oxalate đã hình thành trong máu hoặc các mô.
Xét nghiệm Oxalat
Cách thuận tiện nhất để kiểm tra oxalat là bằng Thử nghiệm axit hữu cơ (OAT) từ Phòng thí nghiệm Great Plains, Inc.
Thử nghiệm axit hữu cơ kiểm tra sự hiện diện của:
• Axit oxalic (oxalat) -Kiểm tra tất cả các dạng axit oxalic và muối của nó hoặc bazơ liên hợp, oxalat
• Arabinose – Chỉ số Candida quan trọng tương quan mạnh với oxalat
• Axit glycolic (glycolate)- Chỉ thị của bệnh di truyền chuyển hóa oxalate được gọi là Hyperoxaluria loại I do thiếu hụt hoạt động của enzyme alanine glyoxylate amino transferase (AGT).
• Axit Glyceric (glycerate) – Chỉ số về bệnh di truyền chuyển hóa oxalate được gọi là Hyperoxaluria loại II do thiếu hụt một loại enzyme (GRHPR) có hai hoạt động sinh hóa: glyoxylate reductase (GR) và hydroxypyruvic reductase (HPR).
• Axit ascorbic (ascorbate, vitamin C) – Cho biết lượng vitamin C hấp thụ vào cơ thể và/hoặc sự phá hủy quá mức. Vitamin C có thể được chuyển đổi quá mức thành oxalat khi đồng tự do rất cao. Đánh giá thêm với hồ sơ đồng/kẽm từ Phòng thí nghiệm Great Plains.
• Axit pyridoxic – Chỉ số về lượng vitamin B-6. Hoạt động của enzyme alanine glyoxylate amino transferase (AGT) cần vitamin B-6 để loại bỏ axit glyoxylic hoặc glyoxylate, một nguồn chính của oxalat dư thừa.
• Axit furandicarboxylic, axit hydroxy-metylfuroic – Dấu hiệu cho nấm như nhiễm Aspergillus, một trong những nguồn oxalat đã được chứng minh
• Dấu hiệu vi khuẩn – Một lượng lớn dấu hiệu vi khuẩn có thể cho thấy giá trị thấp của vi khuẩn có lợi như loài Lactobacilli có khả năng tiêu diệt oxalate.
Nguồn: https://mosaicdx.com